.
Sau gần 15 năm thực hiện, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã tạo ra những chuyển biến tích cực về nhận thức trong phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần bảo vệ người bị bạo lực gia đình, hướng tới xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bạo lực gia đình vẫn là một vấn đề nhức nhối ở Việt Nam. Nhiều vụ việc xuất hiện những hành vi bạo lực gia đình nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, khó xử lý bằng những quy định pháp luật hiện hành. Thực tế đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải thay thế Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Ngày 14 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022.
Theo đó, mục tiêu hướng tới hoàn thiện thể chế về công tác phòng, chống bạo lực gia đình theo hướng tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước, xã hội cũng như vai trò của gia đình về lĩnh vực này, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
Phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 là quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình; quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 gồm 6 chương, 56 điều, tăng 10 điều so với Luật 2007.
Chương I. Những quy định chung gồm 12 Điều (Điều 1 – Điều 12). Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ, hành vi bạo lực gia đình; Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; Các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình; hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; Quyền và trách nhiệm của người bị bạo lực gia đình; Trách nhiệm của người có hành vi bạo lực gia đình; Trách nhiệm của thành viên gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình; quyền và trách nhiệm của cá nhân trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Chương II. Phòng ngừa bạo lực gia đình gồm 6 Điều (Điều 13 – Điều 18). Chương này quy định về mục đích, yêu cầu trong thông tin, truyền thông, giáo dục; Nội dung thông tin, truyền thông, giáo dục; Hình thức thông tin, truyền thông, giáo dục; Tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình; Chủ thể tiến hành hòa giải.
Chương III. Bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình gồm 4 mục, 22 Điều (Điều 19 – Điều 41). Chương này quy định về báo tin, tố giác về hành vi bạo lực gia đình; Xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình; Sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi bạo lực gia đình; Biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình; Buộc chấm dứt hành vi bạo lực gia đình; Yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình; Cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; Cấm tiếp xúc theo quyết định của Tòa án; Giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc; Bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ nhu cầu thiết yếu; Chăm sóc, điều trị người bị bạo lực gia đình; Trợ giúp pháp lý và tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với bạo lực gia đình; Giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình; Góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình trong cộng đồng dân cư; Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng; Bảo vệ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và người báo tin, tố giác về bạo lực gia đình; Cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; Địa chỉ tin cậy; Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở trợ giúp xã hội, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Cơ sở khác tham gia trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; Cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Chương IV. Điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình gồm 4 Điều (Điều 42 – 45). Chương này quy định về kinh phí phòng, chống bạo lực gia đình; Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình; Phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia đình; Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tham gia phòng, chống bạo lực gia đình.
Chương V. Quản lý Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về phòng, chống bạo lực gia đình gồm 9 Điều (Điều 46 – 54). Chương này quy định nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; Trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp; Trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; Trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Trách nhiệmcủa tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế.
Chương VI. Điều khoản thi hành gồm 2 Điều (Điều 55 – Điều 56). Chương này quy định về việc sửa đổi, bổ sung Điều 135 của Bộ Luật Tố tụng dân sự và hiệu lực thi hành.
So với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 đã có nhiều điểm mới tích cực, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số điểm mới tập trung vào các nội dung sau:
a) Tiếp cận dựa trên quyền con người và lấy người bị bạo lực gia đình là trung tâm
Sửa đổi, bổ sung các hành vi bạo lực gia đình; Sửa đổi, bổ sung nhóm đối tượng được áp dụng tương tự; Bổ sung quy định để tăng tính khả thi áp dụng Luật đối với người nước ngoài cư trú ở Việt Nam.
b) Thực hiện phòng ngừa bạo lực gia đình chủ động, trong phòng có chống, trong chống có phòng
Sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin, truyền thông, giáo dục; Nội dung tư vấn, đối tượng cần tập trung tư vấn và quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng trong phòng, chống bạo lực gia đình; Sửa đổi quy định về hòa giải nhằm tránh lợi dụng hòa giải để trốn tránh xử lý hành vi bạo lực gia đình; Bổ sung “Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình”, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình và sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi bạo lực gia đình.
c) Sửa đổi, bổ sung các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình để khắc phục những bất cập của Luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
Bổ sung biện pháp yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình; Thẩm quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Tòa án tự mình ban hành quyết định cấm tiếp xúc, đơn giản hóa thủ tục;
Quy định về giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc; Biện pháp giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình; Biện pháp “thực hiện công việc phục vụ cộng đồng”; Bảo vệ người tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và người báo tin, tố giác về bạo lực gia đình.
d) Khuyến khích xã hội hóa công tác phòng, chống bạo lực gia đình, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong bố trí nguồn lực cho phòng, chống bạo lực gia đình để hướng tới xây dựng và phát triển các cơ sở trợ giúp về phòng, chống bạo lực gia đình hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả
Quy định về cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình, cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình; Bổ sung các quy định về điều kiện bảo đảm thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình như quy định về kinh phí phòng, chống bạo lực gia đình, cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình, phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia đình, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tham gia phòng, chống bạo lực gia đình.
đ) Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình và cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Bổ sung trách nhiệm của Chính phủ định kỳ 02 năm một lần hoặc đột xuất báo cáo Quốc hội về công tác phòng, chống bạo lực gia đình; Trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2023.